Giới thiệu sơ lược Tang_thương_ngẫu_lục

Lịch sử

Bài Tựa in ở đầu tập Tang thương ngẫu lục[1] cho biết bởi những cuộc tang thương, khiến người ta tất có cái cảm khái tang thương, ấy tập sách Tang thương này sỡ dĩ có là vì thế đó. Và theo Trúc Khê, cũng vì chép nhiều chuyện biến thiên của hồi ấy (cuối Lê), cho nên có cái tên sách là Tang thương ngẫu lục, nghĩa là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu[2].

Ban đầu Tang thương ngẫu lục chỉ có bản viết tay trong một thời gian gần trăm năm. Đến năm Bính Thân (1896), niên hiệu Thành Thái thứ 8, Tiến sĩ Gia xuyên Đỗ Văn Tân đang là Tổng đốc Hải Dương quyên tiền khắc ván, từ đó mới có bản in.

Năm 1943, nhà xuất bản Tân Dân cho in Tang thương ngẫu lục, bản tiếng Việt do nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch[3].

Ý nghĩa và nội dung

Bàn về ý nghĩa tập ký, bài Tựa viết:

Từ Lý, Trần, Lê, Trịnh đến nay, trên dưới mấy trăm năm có những điều quốc sử chưa ghi, dã sử chưa chép; hai ông đều thu cả vào trong cõi mắt tang thương. Nếu hai ông hết thẩy đều cho là việc tang thương mà quên đi, thì những chuyện ấy phỏng được mấy lâu mà mai một đi mất. May mà lấy ngòi bút tang thương biên chép, nên nó mới còn là cánh bè chở bến mê, ngọn đèn soi nhà tối; đặt tên là Tang thương ngẫu lục, ý nghĩa có thể nhận biết được vậy.

Tang thương ngẫu lục là tập ký mang nặng tính chất truyền kỳ. Trừ một số ít truyện nói về các đời trước, còn đa phần đều viết về thời Lê mạt. Sách được chia làm 2 quyển: quyển Thượng có 40 bài, quyển Hạ có 49 bài (không kể bài Thơ đề sau của người khác). Có một số bài ghi mỗi tên tác giả. Căn cứ theo bản in năm 2000 do Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin in lại theo bản của nhà xuất bản Tân Dân (1943), thì:

  • Ở quyển Thượng có 13 bài và ở quyển Hạ có 19 bài đề tên Kính Phủ, tức Nguyễn Án.
  • Ở quyển Thượng có 10 bài và ở quyển Hạ có 23 bài đề tên Tùng Niên, tức Phạm Đình Hổ.

Số bài còn lại không đề tên, nên không rõ của ai hay do hai ông cùng hợp soạn.

Căn cứ nội dung từng truyện, Dương Quảng Hàm đã xếp chúng thành 5 mục sau:

  1. Tiểu truyển các danh nhân: Nguyễn Duy Thời, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, v.v…
  2. Thắng cảnh: Bài ký chơi núi Phật Tích (Chùa Thầy), núi Dục Thúy, v.v…
  3. Di tích: Bia núi Thành Nam, Tháp chùa Báo Thiên, Thành cũ Trào Khẩu, Miếu Thanh Cẩm, Cái miếu cổ ở cử Đông Hoa,v.v…
  4. Việc cuối đời Lê: Chuyện cũ trong phủ chúa, Thi Hội, v.v…
  5. Chuyện hay, chuyện lạ: Thần Tôn hoàng đế, Hiển Tôn hoàng đế, Chuyện Nguyễn Duy Thời, Hồ Gươm, Nguyễn Văn Giai, Người nông phu ở Như Kinh, Người nông phu ở An Mô, Ma Đồng Xuân, Ông Nguyễn Bá Dương, Thành Đạo Tử, Mẹ ranh càn sát, v.v...[4].